- Đặt vấn đề
- Một số khái niệm và đặc trưng giáo dục mở
Ảnh: Giáo dục mở là giáo dục không đòi hỏi tiêu chuẩn đầu vào và nói chung là các khóa học online
Với GDNN vốn người học là những người trưởng thành có thể tham gia đào tạo ban đầu, đào tạo liên tục trong quãng đời sống và làm việc tại nơi làm việc với nhiều hình thức chính qui, không chính qui, phi chính qui để luôn có được trình độ kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng với nhu cầu luôn thay đổi ở nơi làm việc. Những thay đổi này tại nơi làm việc chủ yếu do công nghệ sản xuất, dịch vụ, qui trình công nghệ, tổ chức quản lý, sản phẩm, khách hàng... thay đổi, đòi hỏi những kỹ năng mới của người lao động xuất hiện và những kỹ năng cũ có thể mất đi hoặc ít sử dụng.2.2. Một số đặc trưng giáo dục nghề nghiệp mởPhân tích những đặc trưng giáo dục mở cần chỉ ra những thành tố chính hình thành nên hệ thống giáo dục hiện nay như cơ cấu tổ chức quản lý, thể chế, cơ sở cung cấp dịch vụ học tập, người học, giáo viên và cán bộ quản lý, chương trình học tập, tài chính, nguồn lực khác, các bên liên quan (nhà nước, nhà tường, doanh nghiệp và người học), xác nhận trình độ và công nhận trình độ.Một trong các đặc trưng của GDNN mở là sự linh hoạt học tập mềm dẻo (flexible learning) với nhiều điểm vào, điểm ra hệ thống và được công nhận trình độ, kỹ năng mà không quan tâm đến học cái gì, học ở đâu, với phương tiện học tập gì và học khi nào miễn là đạt được các tiêu chuẩn đánh giá về kỹ năng nghề nghiệp bởi cơ quan đánh giá có thẩm quyền.Về cơ cấu tổ chức hệ thống giáo dục ở nước ta tương tự như nhiều nước khác tổ chức từ TW đến địa phương theo cấp Bộ, sở, phòng với vai trò và chức năng khác nhau để quản lý nhà nước các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục. Tùy theo sự phân công, phân cấp mà một số bộ ngành, UBND cấp tỉnh cũng tham gia vào quá trình quản lý nhà nước.Cơ quan quản lý nhà nước quốc gia về GDĐT thay mặt Chính phủ quản lý nhà nước về các phương diện kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, xây dựng chính sách, cơ chế, tiêu chuẩn, chương trình, quản lý chất lượng, văn bằng chứng chỉ, thanh tra...Một nền giáo dục mở đòi hỏi cơ quan quản lý phải có chính sách thúc đẩy giáo dục mở, ban hành văn bản qui phạm pháp luật làm cơ chế để vận hành chính sách giáo dục mở trên các bình diện cung cấp dịch vụ công cho học tập, thiết lập các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, cung cấp điều kiện vật chất, hạ tầng công nghệ, hình thành môi trường sinh thái thuận lợi cho người học trong đo lường đánh giá, công nhận kết quả, cơ chế học liên thông...Ở đây có vấn đề là tư duy quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước rất quan trọng ảnh hưởng đến việc hình thành giáo dục mở. Những vấn đề về cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân (có nên thiết kế theo thang bậc như hiện nay không hay hình thành cơ chế cá nhân hóa việc học tập không theo các tiến độ chung mang tính vĩ mô, hay thiết kế một hệ thống tương tự như mặt phẳng trượt để có sự di chuyển dễ dàng lên xuống cho người học), những vấn đề tổ chức giáo dục công nhận thành tích từng phần và cấp cho người học các tín chỉ hay chứng nhận, sự thẩm thấu đễ dàng giữa GDPT với GDNN và GDĐH (permeability), đa phương án liên thông dọc - ngang, hay chéo khi người học có nhu cầu v.v...Về hệ thống cung cấp dịch vụ học tậpHệ thống cung cấp dịch vụ học tập hiện nay gồm có các trường, các trung tâm giáo dục thừng xuyên- GDNN, các trung tâm đào tạo ở các doanh nghiệp lớn, các trung tâm giáo dục elearning. Giáo dục chính qui được thực hiện trong các trường, giáo dục không chính qui thực hiện tại các trung tâm. Sự ra vào của người học giữa hai hệ thống này vẫn còn có rào cản do sự tin tưởng vào chất lượng giáo dục còn hạn chế. Ngoài ra còn hình thức học tập nữa là học tập phi chính qui (informal learning) là hình thức học tập xảy ra một cách ngẫu nhiên, không cấu trúc tại nơi làm việc thông qua trải nghiệm, tương tác với đồng nghiệp hoặc thông qua các hình thức hội nghị, hội thảo...Động cơ học tập phi chính qui khá đang dạng và chịu chi phối nhiều yếu tố về văn hóa, môi trường nơi làm việc, nền tảng cơ bản về gia đình, dân tộc, kinh tế, học vấn cũng như chính sách khuyến khích phát triển tổ chức học tập tại một cơ quan, tổ chức hay tại mỗi doanh nghiệp. Đáng tiếc là hình thức học tập này hầu như không được công nhận ở Việt Nam.Ngoài ra, có nhiều khóa học được cung cấp từ xa giúp cho người học có cơ hội tiếp cận đến giáo dục và nâng cao kiến thức của mình. Công nghệ thông tin mà cụ thể là công nghệ Internet phát triển giúp cho nhà cũng cấp dịch vụ elearning và trên nền web 2.0 người học có thể tương tác với giáo viên hay người cung cấp dịch vụ. Gần đây chương trình MOOC (Massive Open Online Course) đã và đang làm tăng cơ hội cho người học và là điều kiện quan trọng để có giáo dục mở.Về người học và giáo viênNgười học trong GDNN ban đầu phần đông đến từ các gia đình có hoàn cảnh kinh tế không khá giả, với năng lực học tập đại học hạn chế và động cơ học nghề vì thu nhập và việc làm chưa thể hiện rõ ràng. Ngoài ra còn có những người đã tốt nghiệp ĐH quay lại trường nghề để học các kỹ năng ban đầu đối với nghề ghiệp.GDNN liên tục thường xuyên, người học rất đa dạng từ người trưởng thành ở nhiều lứa tuổi, sống, làm việc ở nhiều địa phương khác nhau đã được đào tạo ban đầu, người đang làm việc hoặc người chưa có việc làm v.v...Với GDNN mở động cơ, thái độ học tập của người học có thể coi là nhân tố rất quan trọng giúp người học tự định hướng việc học tập, hình thành văn hóa học. Tuy nhiên, để học được cần nhấn mạnh người học cũng cần có kiến thức và kỹ năng cơ bản như đọc và tính toán. Nếu mất đi nền tảng văn hóa, thì việc học tập suót đời sẽ gặp trở ngại.Giáo viên trong giáo dục người lớn, nhất là trong giáo dục nghề nghiệp thường xuyên cũng cần đào tạo để phù hợp với người học trong GDTX là những người lớn tuổi và nguyên tắc dạy học ở người lớn tuổi rất khác với GDNN ban đầu. Vì thế, vai trò của giáo viên hoặc người huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp sẽ không giống với đào tạo ban đầu mà vai trò còn phải là người định hướng, giúp cho người học phát huy năng lực, sở trường, kinh nghiệm nghề nghiệp để tự chọn con đường học tập cho bản thân.Về tài chínhMột hệ thống GDNN mở với nhiều điểm vào điểm ra cho người học trong suốt cuộc đời họ không thể không tính đến việc đầu tư tài chính cho người học. Nguồn đầu tư tài chính có thể đến từ chính phủ, doanh nghiệp, người học và các nhà tài trợ, các đối tác xã hội khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào và với mọi doanh nghiệp đều sẵn sàng chi tiền cho nhân viên được đi học và tạo ra được một tổ chức học tập tại doanh nghiệp. Kinh nghiệm nhiều quốc gia phải qui định buộc doanh nghiệp phải để ra số phần trăm doanh thu để đầu tư vào quĩ đào tạo của doanh nghiệp như Pháp chẳng hạn. Ngoài ra người lao động còn được hưởng các phụ cấp trong thời gian học, miễn học phí v.v...Trong nhiều trường hợp khác thì người học phải tự bỏ tiền chi phí cho học tập nếu đăng ký các khóa học từ xa, học tại các trung tâm ngoại ngữ, các trung tâm bồi dưỡng kỹ năng v.v...- Những rào cản đối với GDNN mở
- Khuyến cáo
Bình luận
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm